top of page

26/1/24

Vụ ông Trần Hùng nhận hối lộ: Các bằng chứng kết tội đã thuyết phục?

Tại phiên tòa, những câu hỏi của luật sư ông Hùng bị ông Hải từ chối trả lời nên nội dung cần làm rõ đã bị hạn chế. Vì vậy cơ sở chứng minh cho việc ông Hùng nhận tiền là rất yếu,

Ngày 23/1, sau hơn 1 ngày tiến hành xét hỏi tại tòa phúc thẩm, đại diện VKSND cấp cao đã đề nghị mức án phúc thẩm với bị cáo Trần Hùng, cựu Cục phó Cục Quản lý thị trường, cựu Tổ trưởng Tổ 304, nay là Tổ 1444 (Tổng cục Quản lý thị trường) cùng 17 bị cáo khác có đơn kháng cáo.


Đại diện Viện kiểm sát nêu: "Từ lời khai của ông Hùng và các bị cáo khác, người làm chứng và người liên quan, cấp sơ thẩm tuyên bị cáo Trần Hùng phạm tội nhận hối lộ và phạt 9 năm tù là có căn cứ, không oan". Từ đó, VKS đề nghị tòa phúc thẩm bác kháng cáo của ông Hùng, tuyên y án sơ thẩm.


Tại phiên tòa này, cựu Cục phó Cục QLTT kêu oan về tội nhận hối lộ. Luật sư của ông Hùng cũng có trình tòa bản viết tay của Nguyễn Trung Kiên- người chung buồng giam với Nguyễn Duy Hải (lao động tự do- người môi giới hối lộ 300 triệu đồng). Khi ở chung buồng giam, Hải đã nói với Kiên rằng "muốn đưa tiền cho ông Hùng nhưng khi lên gặp, ông Hùng không cầm tiền, đuổi ra ngoài".


Tài liệu, đồ vật nào được coi là chứng cứ?


Liên quan đến vấn đề này, HĐXX cho rằng, bản viết tay này không có có tính xác thực, không được thu thập theo trình tự thủ tục, do đó không được sử dụng làm nguồn chứng cứ. Vậy trong trường hợp này, những tài liệu, đồ vật nào được coi là chứng cứ? Bản viết tay của người tên Nguyễn Trung Kiên (nếu có) cần được thu thập theo trình tự, thủ tục nào mới được coi là hợp pháp?


Trả lời câu hỏi này, luật sư Nguyễn Thành Công (Công ty Đông Phương Luật, Đoàn luật sư TP.HCM) cho rằng, theo quy định tại Điều 87 BLTTHS, chứng cứ được thu thập, xác định từ nguồn chứng cứ gồm: Vật chứng; Lời khai, lời trình bày; Dữ liệu điện tử; Kết luận giám định, định giá tài sản; Biên bản trong hoạt động khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án; Kết quả thực hiện ủy thác tư pháp và hợp tác quốc tế khác; Các tài liệu, đồ vật khác. Nguồn chứng cứ này là những gì có thật, được thu thập theo trình tự, thủ tục do Bộ luật Tố tụng hình sự quy định, được dùng làm căn cứ để xác định có hay không có hành vi phạm tội, người thực hiện hành vi phạm tội và những tình tiết khác có ý nghĩa trong việc giải quyết vụ án.


Như vậy, muốn trở thành nguồn chứng cứ thì phải được thu thập hợp pháp theo đúng quy định của pháp luật hình sự. Từ nguồn chứng cứ biến thành chứng cứ thì chỉ 1 cơ quan có thẩm quyền quyết định đó là Tòa án, cụ thể là HĐXX của vụ án đó quyết định tại phiên xét xử.


Do đó, trong vụ án này, luật sư Công cho rằng, bản viết tay của người tên Nguyễn Trung Kiên được xem là nguồn chứng cứ hợp pháp nếu có xác nhận của Cơ sở giam giữ khi Kiên lập văn bản này. Tất nhiên, như phân tích trên, nguồn chứng cứ này cũng phải được xem xét tổng thể để quyết định có phải là chứng cứ để xác định việc ông Hùng có hay không nhận tiền là phụ thuộc vào quyết định của HĐXX chứ không phải mọi nguồn chứng cứ đều được xem là chứng cứ.


Còn về phía đại diện VKS xác định, đây không phải nguồn chứng cứ vì đây là bản khai của phạm nhân nhưng không có chứng nhận của trại giam và đề nghị HĐXX không xem xét văn bản này. Luật sư Công cho rằng, ý kiến của VKS sau đó là nhận định của HĐXX như trên là không sai nhưng từ nhận định đó để kết luận văn bản của Nguyễn Trung Kiên lập hoàn toàn không có giá trị gì lại là một vấn đề gây bức xúc. Lẽ ra có quyết định khác thì sẽ toàn diện, khách quan, hợp lý, hợp tình và thuyết phục hơn.


Đầu tiên là tính không sai trong nhận định trên của VKS, HĐXX. Căn cứ theo quy định về chứng cứ ở Điều 86 BLTTHS thì tài liệu này không được thu thập một cách hợp pháp, vì không biết là của ai, không có xác nhận của Cơ sở giam giữ vì vậy không thể xem là nguồn chứng cứ làm cơ sở để HĐXX xem xét quyết định là chứng cứ chứng minh trong vụ án. Tuy nhiên, người viết ra tờ giấy này là một người có thật, đang cư trú (đang tạm giam hoặc hiện đang thi hành án tại Cơ sở giam giữ), có nơi chốn rõ ràng. Vì vậy, chỉ vài động tác điều tra theo quy định thì sẽ có ngay kết quả về tính trung thực, khách quan để khi áp vào quy định thì có được xem là nguồn chứng cứ hay không"- luật sư Công phân tích.


Cùng với đó, theo luật sư Công, đây là phiên tòa phúc thẩm, tài liệu này có tính mới, tức mới xuất hiện ở phiên tòa phúc thẩm, có sự liên quan đến các chứng cứ khác như lời khai của bị cáo Hùng cũng như các lời khai khác thể hiện việc ông Hùng nhận tiền khá mơ hồ.


Các bằng chứng kết tội đã thuyết phục?


Vì vậy, theo luật sư Công, cấp phúc thẩm hoàn toàn có thể dừng phiên tòa để thu thập nhanh thông tin này, từ đó quyết định về tính xác thực hay không cũng không quá khó khăn hoặc mạnh mẽ hơn, có thể hủy bán án sơ thẩm để điều tra lại nhằm quyết định thật tường minh về thân phận một con người cũng là việc nên làm. Chưa nói, quyết định như hiện tại còn vi phạm vào nguyên tắc suy đoán vô tội ở Điều 13 BLHS hiện hành vì chỉ dựa vào một lời khai duy nhất của một người nhưng chính lời khai này cũng bất nhất nên tính chứng minh có hạn chế. Vì vậy việc buộc tội ông Hùng là chưa thuyết phục.



"Vụ án này, qua báo chí thể hiện, chứng cứ quyết định đến việc giải quyết vụ án phần liên quan đến ông Hùng là căn cứ để chứng minh ông Hùng nhận tiền. Việc đưa nhận này chỉ có 2 người là ông Hải đưa, ông Hùng nhận và hai người này khai mâu thuẫn nhau nhưng các Cơ quan tiến hành tố tụng thì quyết định chấp nhận lời khai của ông Hải cùng với các hoạt động nghề nghiệp sau đó của ông Hùng để buộc tội với ông Hùng là có nhận. Đây là suy diễn gây bất lợi cho người bị buộc tội là ông Hùng, vi phạm nguyên tắc suy đoán vô tội quy định ở Điều 13 BLHS hiện hành"- luật sư Công phân tích.


Tại phiên tòa, những câu hỏi của luật sư ông Hùng bị ông Hải từ chối trả lời nên nội dung cần làm rõ đã bị hạn chế. Vì vậy cơ sở chứng minh cho việc ông Hùng nhận tiền là rất yếu, chỉ một lời khai duy nhất của ông Hải mà bác bỏ toàn bộ lời khai cùng các cơ sở, lập luận của ông Hùng là vi phạm nguyên tắc xác định sự thật của vụ án quy định tại Điều 15, BLHS hiện hành.


"Bản án phúc thẩm có hiệu lực kể từ khi dứt lời tuyên án nên chỉ còn 1 thủ tục duy nhất là xem xét theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc tái thẩm. Giám đốc thẩm là cấp có thẩm quyền xem xét lại bản án đã có hiệu lực pháp luật nhưng bị vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng hoặc áp dụng sai pháp luật; tái thẩm là xem xét lại bản án đã có hiệu lực khi xuất hiện tình tiết mới làm thay đổi bản chất vụ án"- luật sư Công phân tích.


Với vụ án này, luật sư Công nhấn mạnh: Có cơ sở để xem xét theo thủ tục giám đốc thẩm từ TANDTC. Muốn thực hiện điều này, phía ông Hùng, luật sư hoặc các tổ chức cá nhân theo quy định của pháp luật có đơn đề nghị xem xét theo thủ tục giám đốc thẩm gửi đến VKSNDTC hoặc TANDTC để 2 cơ quan này xem xét và trước tiên họ sẽ ra Quyết định kháng nghị giám đốc thẩm, làm cơ sở mở phiên họp xem xét theo giám đốc thẩm.

Key word:

Nguồn: 

Download

TIN BÀI MỚI

Quy định pháp luật về tình tiết "Phạm tội với người già yếu"

Đoàn Luật sư TP.HCM thực hiện chiến dịch luật sư tình nguyện trao tặng 1 tỷ đồng

Đông Phương Luật được vinh danh "Tổ Chức Hành Nghề Luật Sư Tiêu Biểu" giai đoạn 2021-2023

Nghị quyết 02/2024/NQ-HĐTP hướng dẫn áp dụng một số quy định về tội vi phạm quy định về phòng cháy chữa cháy

bottom of page